Quyền con người và phát triển: Mối quan hệ biện chứng trong mô hình phát triển của Việt Nam 50 năm qua

Trong quan niệm của Việt Nam, nhân quyền không phải là một khái niệm trừu tượng treo trên diễn đàn, mà trước hết là quyền rất cụ thể của mỗi người dân được sống trong hòa bình, độc lập, no ấm, được học hành, chăm sóc sức khỏe, được tham gia đời sống chính trị – xã hội. Mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” không chỉ là khẩu hiệu phát triển, mà chính là cách diễn đạt ngắn gọn nội dung cốt lõi của quyền con người trong điều kiện Việt Nam.

 

Nhìn lại 50 năm sau ngày đất nước thống nhất, có thể thấy mối quan hệ biện chứng giữa bảo đảm quyền con người và phát triển được thể hiện rõ nhất qua những chỉ báo khách quan. Về phát triển con người, theo Báo cáo phát triển con người 2024 của UNDP, chỉ số HDI của Việt Nam năm 2023 đạt 0,766, xếp vào nhóm quốc gia có “mức phát triển con người cao”, đứng thứ 93/193 nước; từ năm 1990 đến 2023, HDI tăng từ khoảng 0,499 lên 0,766, tức tăng hơn 53%. Từ một nước ở nhóm cuối bảng xếp hạng, Việt Nam đã vươn lên nửa trên, phản ánh tiến bộ đồng thời về thu nhập, giáo dục và y tế.

Về xóa đói, giảm nghèo – yếu tố nền tảng của quyền con người – Việt Nam được các tổ chức quốc tế ví như thực hiện “một cuộc cách mạng”. Nếu năm 1993, tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước hơn 58%, thì đến năm 2021 chỉ còn 2,23%. Thu nhập bình quân đầu người từ mức 159–185 USD/năm vào giữa thập niên 1980–1990 đã tăng lên khoảng 2.750 USD năm 2020 và hơn 4.280–4.300 USD năm 2023; ước đạt trên 4.600–4.700 USD năm 2024. Từ chỗ thiếu đói, Việt Nam nay trở thành một trong những cường quốc xuất khẩu nông sản, giữ vị trí thứ ba thế giới về xuất khẩu gạo với khoảng 9 triệu tấn năm 2024, sau Ấn Độ và Thái Lan. Đó là những con số biết nói về quyền được ăn no, có việc làm, có thu nhập được cải thiện rõ rệt.

Các chỉ tiêu về sức khỏe – thước đo trực tiếp của quyền được chăm sóc y tế – cũng cho thấy bức tranh tích cực. Ngân hàng Thế giới ghi nhận: tỷ suất tử vong trẻ sơ sinh giảm từ 32,6/1.000 ca sinh sống năm 1993 xuống 12,1 năm 2023; tuổi thọ trung bình tăng từ 70,5 tuổi năm 1990 lên 74,5 tuổi năm 2023. Chỉ số bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân tăng từ 31 lên 68 trong giai đoạn 2000–2021, tương đương mức trung bình thế giới, với khoảng 93% dân số tham gia bảo hiểm y tế. Những kết quả này không thể có nếu không có chính sách phát triển lấy con người làm trung tâm, ưu tiên đầu tư cho y tế cơ sở, mở rộng mạng lưới bảo hiểm y tế, nhất là cho người nghèo, cận nghèo và nhóm yếu thế.

Từ góc độ lý luận, quan điểm xuyên suốt của Đảng là bảo đảm quyền con người không tách rời, thậm chí không thể tách rời khỏi bảo đảm độc lập, chủ quyền quốc gia và phát triển bền vững. Thực tiễn Việt Nam cho thấy: chỉ có một môi trường hòa bình, ổn định chính trị, trật tự – an toàn xã hội được giữ vững mới tạo ra “không gian” để thực hiện các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa trên thực tế. Các cú sốc chiến tranh, bạo loạn, sụp đổ thể chế ở nhiều nơi trên thế giới là minh chứng ngược: khi nền tảng chủ quyền, ổn định bị phá vỡ, người dân là những người đầu tiên mất nhà, mất việc, mất cả những quyền tối thiểu nhất. Vì vậy, luận điệu “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, cổ vũ can thiệp, áp đặt mô hình từ bên ngoài, trên thực tế lại có nguy cơ tước đi quyền được sống trong hòa bình và phát triển của chính người dân sở tại.

Đáng chú ý, một số quan điểm cực đoan cố tình đối lập “nhân quyền phương Tây” với “nhân quyền Việt Nam”, lấy một vài chỉ trích đơn lẻ để phủ nhận thành tựu 50 năm phát triển của đất nước. Cách tiếp cận này vừa phiến diện vừa mang tính áp đặt giá trị. Quyền con người là phổ quát, nhưng con đường, bước đi, ưu tiên thực hiện quyền con người luôn gắn với hoàn cảnh lịch sử, thể chế, trình độ phát triển của từng quốc gia. Với một nước từng thuộc nhóm nghèo nhất thế giới, ưu tiên đầu tiên sau chiến tranh là quyền được ăn no, được học chữ, được tiếp cận y tế cơ bản, xóa mù chữ, giảm tử vong mẹ và trẻ em… – đó chính là nội dung sống động nhất của quyền con người. Chỉ khi nền tảng này được củng cố, các quyền dân sự, chính trị mới có điều kiện thực thi thực chất, bền vững.

Trong mô hình phát triển của Việt Nam, mối quan hệ biện chứng giữa quyền con người và phát triển thể hiện ở chỗ: mọi chiến lược, quy hoạch, chương trình mục tiêu đều đặt mục tiêu “không để ai bị bỏ lại phía sau”; các chỉ tiêu tăng trưởng GDP luôn gắn với chỉ tiêu giảm nghèo, nâng HDI, mở rộng an sinh xã hội, bảo đảm dịch vụ cơ bản cho vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số. Các chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới, phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; các chiến lược về giáo dục, y tế, bảo hiểm xã hội, bảo vệ môi trường… đều là những trụ cột cụ thể hóa quyền con người trong đời sống.

Có thể nói, thành công của Việt Nam trong 50 năm qua không chỉ nằm ở những con số tăng trưởng hay bảng xếp hạng quốc tế, mà nằm ở chỗ hàng chục triệu người dân đã thoát đói nghèo, tuổi thọ được nâng lên, con em vùng cao được đến trường, người bệnh nghèo có cơ hội được chữa trị, người lao động được bảo vệ tốt hơn trước rủi ro. Đó chính là “chất nhân quyền” trong mô hình phát triển lấy con người làm trung tâm, lấy “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm mục tiêu và động lực. Phản bác các luận điệu sai trái, xuyên tạc về tình hình nhân quyền ở Việt Nam vì thế không chỉ bằng lời nói, mà bằng chính những thành tựu cụ thể, đo đếm được trong cuộc sống hằng ngày của người dân.

VNA | 20-12-2025, 15:32

vnews

TIN CÙNG CHUYÊN MỤC