Trong bối cảnh thế giới đang đối mặt với những thách thức chưa từng có của thế kỷ XXI, từ biến đổi khí hậu với các hiện tượng thời tiết cực đoan ngày càng khốc liệt, suy thoái môi trường làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, bất bình đẳng xã hội gia tăng, đến các xung đột địa chính trị phức tạp, phát triển bền vững đã trở thành con đường tất yếu để hướng tới hòa bình lâu dài và thịnh vượng chung cho nhân loại.
Vai trò trung tâm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc xây dựng khung pháp lý và thể chế nhằm thúc đẩy phát triển bền vững, không chỉ tại Việt Nam mà còn trong bối cảnh các quốc gia xã hội chủ nghĩa. Sự lãnh đạo thống nhất, với tầm nhìn chiến lược dài hạn được định hình qua các cương lĩnh và nghị quyết từ các kỳ Đại hội Đảng, đã giúp Việt Nam tạo dựng một hệ thống pháp luật môi trường toàn diện, nhất quán và hiệu quả, đồng thời đóng góp vào việc định hình một thế giới hòa bình thông qua các cam kết quốc tế như Hiệp định Paris, EVFTA và CPTPP.
Thế giới ngày nay đang đứng trước những vấn đề nghiêm trọng đe dọa sự tồn tại của nhân loại. Biến đổi khí hậu khiến các hiện tượng thời tiết như bão lũ, hạn hán và sóng nhiệt trở nên thường xuyên và dữ dội hơn, trong khi suy thoái môi trường làm cạn kiệt tài nguyên thiết yếu như nước, đất đai và rừng. Đồng thời, bất bình đẳng xã hội ngày càng sâu sắc, kết hợp với các căng thẳng địa chính trị, đã làm gia tăng nguy cơ bất ổn và xung đột. Trong bối cảnh đó, phát triển bền vững không chỉ là một mục tiêu kinh tế - xã hội mà còn là con đường chiến lược để giải quyết các nguyên nhân gốc rễ của xung đột, từ đó xây dựng một thế giới hòa bình và ổn định hơn. Phát triển bền vững, theo cách hiểu của Liên Hợp Quốc, là sự phát triển đáp ứng nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai, dựa trên sự cân bằng giữa ba trụ cột: kinh tế, xã hội và môi trường.
Biến đổi khí hậu với các hiện tượng thời tiết cực đoan đang ngày càng khốc liệt. Ảnh minh họa Internet
Từ góc độ pháp lý, việc xây dựng một khung pháp luật hiệu quả để thúc đẩy phát triển bền vững đòi hỏi sự lãnh đạo thống nhất, tầm nhìn dài hạn và khả năng điều phối nguồn lực xã hội một cách đồng bộ. Các quốc gia xã hội chủ nghĩa, với đặc trưng là sự lãnh đạo tập trung của Đảng Cộng sản, đã thể hiện những lợi thế độc đáo trong việc đáp ứng các yêu cầu này. Ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua các cương lĩnh và nghị quyết từ các kỳ Đại hội, không chỉ định hình chính sách quốc gia mà còn tạo ra sự đồng thuận xã hội, điều phối liên ngành và thúc đẩy hợp tác quốc tế. Vai trò này không chỉ giúp Việt Nam ứng phó với các thách thức toàn cầu mà còn định vị đất nước như một nhân tố tích cực trong các nỗ lực quốc tế về phát triển bền vững và hòa bình.
Sự lãnh đạo thống nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam mang lại lợi thế vượt trội so với các hệ thống đa đảng, nơi chính sách môi trường thường bị chi phối bởi các chu kỳ bầu cử ngắn hạn và xung đột lợi ích giữa các nhóm chính trị. Trong khi các quốc gia khác có thể bị mắc kẹt trong những ưu tiên ngắn hạn, Đảng Cộng sản Việt Nam duy trì một tầm nhìn chiến lược kéo dài hàng thập kỷ, điều này đặc biệt quan trọng đối với phát triển bền vững, khi các chính sách môi trường thường chỉ phát huy hiệu quả sau nhiều năm hoặc nhiều thế hệ. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, được thông qua tại Đại hội VII năm 1991, đã đặt nền móng cho phát triển bền vững, nhấn mạnh sự đoàn kết dân tộc, phát triển kinh tế gắn liền với bảo vệ môi trường và hợp tác quốc tế. Cương lĩnh này khẳng định rằng xã hội xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam hướng tới là một xã hội do nhân dân lao động làm chủ, với nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại, đồng thời coi bảo vệ môi trường là một phần không thể tách rời của quá trình phát triển.
Tiếp nối tinh thần đó, các kỳ Đại hội tiếp theo đã liên tục củng cố và mở rộng tầm nhìn này. Tại Đại hội IX năm 2001, Đảng khẳng định mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó phát triển bền vững được xem là yếu tố cốt lõi để đạt được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đại hội X năm 2006 nhấn mạnh sự cần thiết của việc phát triển kinh tế nhanh, bền vững, gắn liền với bảo vệ môi trường, đồng thời đề ra các nhiệm vụ cụ thể như đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và tăng cường các biện pháp bảo vệ môi trường. Đến Đại hội XI năm 2011, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011–2020 được thông qua, trong đó quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường được xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm. Đại hội XII năm 2016 tiếp tục nhấn mạnh việc đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ, với trọng tâm là phát triển kinh tế nhanh, bền vững, trong khi Đại hội XIII năm 2021 xác định phát triển bền vững là ưu tiên chiến lược quốc gia, lấy bảo vệ môi trường sống và sức khỏe nhân dân làm mục tiêu hàng đầu. Nghị quyết Đại hội XIII đề ra các chỉ tiêu cụ thể, như đảm bảo 100% cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý vào năm 2030, và hướng tới việc Việt Nam trở thành một quốc gia có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào cùng thời điểm.
Nghị quyết số 41-NQ/TW năm 2004 đã đánh dấu một cột mốc quan trọng, khẳng định rằng bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn của nhân loại. Nghị quyết này không chỉ đánh giá tình hình bảo vệ môi trường sau 20 năm đổi mới mà còn đưa ra các giải pháp toàn diện, từ nâng cao nhận thức đến triển khai hành động cụ thể. Sự lãnh đạo thống nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam giúp Việt Nam vượt qua những áp lực ngắn hạn từ thị trường tự do hoặc lợi ích chính trị cục bộ, đảm bảo các chính sách phát triển bền vững được triển khai một cách nhất quán và bền vững. Tương tự, tại Trung Quốc, khái niệm “Văn minh Sinh thái”, được Đảng Cộng sản Trung Quốc đưa vào Hiến chương Đảng năm 2012, đã trở thành kim chỉ nam cho các kế hoạch 5 năm, tạo ra một khung pháp lý toàn diện cho phát triển bền vững, từ quản lý tài nguyên đến giảm phát thải carbon. Tại Cuba, chương trình Tarea Vida được triển khai từ năm 2017 dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Cuba, không chỉ ứng phó với biến đổi khí hậu mà còn đảm bảo công bằng xã hội, với các biện pháp như bảo vệ cộng đồng ven biển và thúc đẩy nông nghiệp bền vững.
Phát triển bền vững đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường, giáo dục và khoa học công nghệ. Trong các hệ thống tư bản chủ nghĩa, sự phân mảnh quyền lực giữa các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp tư nhân và các nhóm lợi ích thường gây ra những khó khăn lớn trong việc đạt được sự đồng bộ, dẫn đến tình trạng chính sách chồng chéo hoặc thiếu hiệu quả. Ngược lại, với vai trò lãnh đạo toàn diện, Đảng Cộng sản Việt Nam có khả năng tích hợp các mục tiêu phát triển bền vững vào hệ thống pháp luật quốc gia một cách mạch lạc. Nghị quyết Đại hội VII năm 1991 đã xác định các định hướng lớn về chính sách kinh tế, xã hội và môi trường, nhấn mạnh sự cần thiết của sự phối hợp liên ngành. Đại hội X năm 2006 tiếp tục củng cố quan điểm này, đề ra nhiệm vụ đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và tăng cường bảo vệ môi trường như các trụ cột của phát triển bền vững. Nghị quyết số 24-NQ/TW năm 2013 đánh dấu một bước tiến quan trọng, đưa ra cách tiếp cận toàn diện, xác định rằng việc chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường là những vấn đề mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nghị quyết này đề ra các nhiệm vụ pháp lý cốt lõi, bao gồm phòng ngừa ô nhiễm, cải thiện chất lượng môi trường và bảo tồn đa dạng sinh học, từ đó định hình các văn bản pháp luật chuyên ngành, như Luật Bảo vệ Môi trường số 72/2020/QH14, tích hợp các nguyên tắc Môi trường, Xã hội và Quản trị (ESG) vào hệ thống pháp luật quốc gia.
Thực hiện phát triển bền vững đòi hỏi nguồn lực khổng lồ về tài chính, công nghệ và nhân lực. Nhờ cơ chế lãnh đạo tập trung, Đảng Cộng sản Việt Nam có khả năng huy động và phân bổ nguồn lực xã hội một cách hiệu quả, đồng thời tạo ra sự đồng thuận xã hội thông qua hệ thống giáo dục chính trị và các tổ chức quần chúng như Mặt trận Tổ quốc, Đoàn Thanh niên và Hội Liên hiệp Phụ nữ. Điều này đảm bảo rằng các chính sách phát triển bền vững nhận được sự ủng hộ rộng rãi từ nhân dân, ngay cả khi đòi hỏi hy sinh lợi ích ngắn hạn. Nghị quyết Đại hội IX năm 2001 nhấn mạnh vai trò của đoàn kết toàn dân tộc trong việc huy động nguồn lực, trong khi Nghị quyết Đại hội XIII năm 2021 tiếp tục kêu gọi toàn dân tham gia các chương trình phát triển bền vững thông qua các phong trào như “Toàn dân tham gia bảo vệ môi trường”. Kết luận số 56-KL/TW năm 2019 khẳng định nguyên tắc không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế, tạo cơ sở pháp lý để từ chối các dự án đầu tư gây ô nhiễm, đồng thời khuyến khích các sáng kiến kinh tế xanh như năng lượng tái tạo và nông nghiệp hữu cơ.
Đại hội XIII năm 2021 xác định phát triển bền vững là ưu tiên chiến lược quốc gia. Ảnh: TTXVN
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, hệ thống pháp luật môi trường của Việt Nam ngày càng được hoàn thiện. Cương lĩnh năm 1991 đã xác định các nguyên tắc cơ bản cho phát triển bền vững, nhấn mạnh bảo vệ môi trường như một yếu tố then chốt trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nghị quyết số 41-NQ/TW năm 2004 khẳng định rằng bảo vệ môi trường là nhân tố bảo đảm sức khỏe và chất lượng cuộc sống của nhân dân, từ đó dẫn đến việc ban hành Luật Bảo vệ Môi trường năm 2005, sau đó được nâng cấp thành Luật Bảo vệ Môi trường số 72/2020/QH14, tích hợp các tiêu chuẩn quốc tế và nguyên tắc ESG. Nghị quyết số 24-NQ/TW năm 2013 đánh dấu một bước đột phá, mở rộng phạm vi từ bảo vệ môi trường sang phát triển bền vững toàn diện, định hình Chiến lược Quốc gia về Tăng trưởng Xanh 2021–2030, với các mục tiêu cụ thể như giảm cường độ phát thải khí nhà kính trên GDP và tăng tỷ lệ năng lượng tái tạo.
Việt Nam cũng đối mặt với thách thức lớn trong việc cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế nhanh chóng và bảo vệ môi trường. Với tốc độ tăng trưởng GDP trung bình 6-7% hàng năm trong thập kỷ qua, áp lực khai thác tài nguyên và phát triển công nghiệp là rất lớn. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, khái niệm “tăng trưởng xanh” đã được giới thiệu trong Nghị quyết Đại hội XIII năm 2021 và cụ thể hóa trong Luật Đầu tư năm 2020, với các quy định hạn chế đầu tư vào các dự án sử dụng công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm. Kết luận số 56-KL/TW năm 2019 nhấn mạnh nguyên tắc không đánh đổi môi trường để lấy lợi ích kinh tế ngắn hạn, tạo cơ sở pháp lý cho việc từ chối các dự án gây hại, như các nhà máy nhiệt điện than không đạt tiêu chuẩn. Quyết định số 1658/QĐ-TTg năm 2021 phê duyệt Chiến lược Quốc gia về Tăng trưởng Xanh 2021–2030, đặt mục tiêu giảm thiểu các ngành công nghiệp gây ô nhiễm và thúc đẩy mô hình kinh tế tuần hoàn, nơi chất thải từ một ngành trở thành đầu vào cho ngành khác.
Việt Nam đã thể hiện khả năng hội nhập quốc tế xuất sắc thông qua việc phê chuẩn Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu, tham gia EVFTA và CPTPP. Nghị quyết Đại hội XI năm 2011 nhấn mạnh việc chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, trong khi các Nghị quyết Đại hội XII và XIII tiếp tục sử dụng áp lực quốc tế như động lực để hoàn thiện khung pháp lý trong nước, đồng thời bảo vệ lợi ích quốc gia. Cam kết đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 tại Hội nghị COP26 năm 2021 thể hiện vai trò tích cực của Việt Nam trong các sáng kiến toàn cầu, như giảm phát thải khí mê-tan 30% vào năm 2030.
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và lãnh đạo các nước tham gia Tuyên bố rừng và sử dụng đất tại sự kiện “Hành động về rừng và sử dụng đất” trong khuôn khổ COP26
Phát triển bền vững không chỉ là mục tiêu kinh tế - xã hội mà còn là con đường dẫn đến hòa bình lâu dài. Xung đột tài nguyên, như tranh chấp về nước, đất đai và khoáng sản, là nguyên nhân chính gây bất ổn toàn cầu. Từ góc độ pháp lý, phát triển bền vững giúp giảm thiểu xung đột thông qua quản lý tài nguyên bền vững. Các quốc gia xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, có khả năng quy hoạch và quản lý tài nguyên một cách có hệ thống, như Sáng kiến Vành đai và Con đường của Trung Quốc, nhấn mạnh hợp tác quốc tế và chia sẻ công nghệ thay vì cạnh tranh tài nguyên. Tại Việt Nam, Nghị quyết số 24-NQ/TW năm 2013 định hướng quản lý tài nguyên thiên nhiên, đảm bảo các chính sách khai thác tài nguyên được thực hiện với mục tiêu bảo vệ môi trường và duy trì hòa bình.
Bất bình đẳng kinh tế và xã hội cũng là nguyên nhân sâu xa của xung đột. Phát triển bền vững tại các quốc gia xã hội chủ nghĩa nhấn mạnh công bằng xã hội, như được khẳng định trong Cương lĩnh năm 1991, với mục tiêu các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Nghị quyết Đại hội XIII năm 2021 cam kết phân bổ công bằng lợi ích từ tăng trưởng xanh, đảm bảo không ai bị bỏ lại phía sau. Tại Cuba, chương trình Tarea Vida không chỉ ứng phó với biến đổi khí hậu mà còn đảm bảo các cộng đồng dễ bị tổn thương được hưởng lợi từ chính sách phát triển bền vững, góp phần ổn định xã hội.
Hợp tác quốc tế và đoàn kết là truyền thống mạnh mẽ của các quốc gia xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết Đại hội VII năm 1991 nhấn mạnh quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới, trong khi Nghị quyết Đại hội XIII năm 2021 tiếp tục kêu gọi chia sẻ kinh nghiệm và công nghệ với các quốc gia khác. Việt Nam đã cam kết thực hiện các Mục tiêu Phát triển Bền vững của Liên Hợp Quốc và tham gia các sáng kiến như Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) về phát triển bền vững. Tương tự, Cuba đã chia sẻ kinh nghiệm từ Tarea Vida với các quốc gia Nam bán cầu, góp phần xây dựng môi trường hợp tác quốc tế thuận lợi cho hòa bình.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường ngày càng hoàn thiện và phát huy hiệu quả. Ảnh minh hoạ
Tuy nhiên, các quốc gia xã hội chủ nghĩa, bao gồm Việt Nam, vẫn đối mặt với một số thách thức. Minh bạch và trách nhiệm giải trình cũng là một thách thức, khi Nghị quyết Đại hội XII năm 2016 nhấn mạnh tăng cường pháp chế và kỷ cương xã hội, nhưng thực thi vẫn gặp khó khăn trong việc giám sát các dự án lớn. Ngoài ra, áp lực từ cạnh tranh quốc tế có thể làm giảm khả năng cạnh tranh ngắn hạn khi áp dụng các tiêu chuẩn môi trường cao.
Nhìn về tương lai, các quốc gia xã hội chủ nghĩa cần đóng vai trò tích cực trong xây dựng hệ sinh thái pháp lý toàn cầu, góp phần định hình các công ước quốc tế về môi trường. Việt Nam có thể dẫn đầu trong việc thành lập một “Liên minh Pháp lý Phát triển Bền vững” giữa các quốc gia xã hội chủ nghĩa và các nước đang phát triển, tạo khối lượng pháp lý đủ mạnh để đối trọng với áp lực từ các nước phát triển. Đồng thời, cần đổi mới cơ chế tham gia xã hội, cụ thể hóa các hình thức tham vấn công chúng có tính ràng buộc pháp lý. Việc tích hợp công nghệ vào quản lý môi trường, như sử dụng AI và blockchain để theo dõi carbon minh bạch, cũng là một hướng đi đầy triển vọng, được hỗ trợ bởi Chiến lược Quốc gia về Trí tuệ Nhân tạo đến 2030. Cuối cùng, xu hướng công nhận “quyền của thiên nhiên” và phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn sẽ mở ra cơ hội để Việt Nam tiên phong trong việc bảo vệ môi trường và thúc đẩy phát triển bền vững.
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, được định hình qua các cương lĩnh và nghị quyết từ các kỳ Đại hội, đã mang lại lợi thế vượt trội trong việc xây dựng khung pháp lý cho phát triển bền vững. Vai trò này không chỉ nằm ở việc định hình chính sách mà còn ở khả năng tạo đồng thuận xã hội, điều phối liên ngành và thúc đẩy hợp tác quốc tế. Kinh nghiệm từ Văn minh Sinh thái của Trung Quốc, Tăng trưởng Xanh của Việt Nam và Tarea Vida của Cuba cho thấy những giải pháp pháp lý sáng tạo để đối phó với khủng hoảng sinh thái toàn cầu. Phát triển bền vững, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, không chỉ là mục tiêu kinh tế - xã hội mà còn là con đường dẫn đến hòa bình lâu dài, góp phần xây dựng một thế giới hòa bình, công bằng và thịnh vượng hơn./.
TS. Lê Thương Huyền
Viện Nhà nước và Pháp luật, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam
Nghĩa Thương
Trung tâm Nội dung số và Truyền thông, TTXVN
1.Brauteseth, C. S. (2022). Transplanting China’s ecological civilization to the Belt and Road Initiative: What will it take? Journal of International Development, 35(6), 1108–1129. https://doi.org/10.1002/jid.3692
2.Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường Cuba. (2017). Tarea Vida: Kế hoạch quốc gia đối phó với biến đổi khí hậu. CITMA.
3.Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam. (2021). Chiến lược Quốc gia về nghiên cứu, phát triển và ứng dụng trí tuệ nhân tạo đến 2030. MOST Vietnam.
4.Đảng Cộng sản Trung Quốc. (2012). Hiến chương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Đại hội Toàn quốc lần thứ 18.
5.Đảng Cộng sản Việt Nam. (1991). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật.
6.Đảng Cộng sản Việt Nam. (2001). Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật.
7.Đảng Cộng sản Việt Nam. (2006). Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật.
8.Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật.
9.Đảng Cộng sản Việt Nam. (2016). Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật.
10.Đảng Cộng sản Việt Nam. (2004). Nghị quyết số 41-NQ/TW: Bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ban Chấp hành Trung ương.
11.Đảng Cộng sản Việt Nam. (2013). Nghị quyết số 24-NQ/TW: Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Ban Chấp hành Trung ương.
12.Đảng Cộng sản Việt Nam. (2019). Kết luận số 56-KL/TW: Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW. Bộ Chính trị.
13.Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật.
14.Đảng Cộng sản Việt Nam. (2024). Nghị quyết số 57-NQ/TW: Đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Bộ Chính trị.
15.Hansen, M. H., Li, H., & Svarverud, R. (2018). Ecological civilization: Interpreting the Chinese past, projecting the global future. Global Environmental Change, 53, 195–203. https://doi.org/10.1016/j.gloenvcha.2018.09.014
16.Li, Y., & Shapiro, J. (2024). China planet: Ecological civilization and global climate governance. Issues in Science and Technology, 41(1), 45–52.
17.Quốc hội Việt Nam. (2020). Luật Bảo vệ Môi trường số 72/2020/QH14. Tạp chí Pháp luật và Thực tiễn Việt Nam.
18.Thủ tướng Chính phủ Việt Nam. (2021). Quyết định số 1658/QĐ-TTg: Chiến lược Quốc gia về Tăng trưởng Xanh 2021–2030, Tầm nhìn đến 2050.
19.Stone, R. (2018). Cuba embarks on a 100-year plan to protect itself from climate change. Science, 359(6372), 144–145. https://doi.org/10.1126/science.359.6372.144
VNA | 12-10-2025, 20:37
16-10-2025, 06:00
16-10-2025, 06:00
15-10-2025, 17:36
15-10-2025, 21:39
14-10-2025, 19:45
16-10-2025, 06:00
Dự án cao tốc Châu Đốc – Cần Thơ – Sóc Trăng giai đoạn 1 có tổng chiều dài hơn 188 km, trong đó đoạn qua An Giang dài 57 km với tổng vốn đầu tư hơn 13.500 tỷ đồng. ;
16-10-2025, 11:16
Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) Jerome Powell vừa cảnh báo rằng Fed đang phải thực hiện một “bài toán cân bằng đầy rủi ro” giữa hai mục tiêu là kiềm chế lạm phát và duy trì tăng trưởng việc làm. ;
16-10-2025, 11:15
Brazil và Mỹ sẽ tiến hành đàm phán về thuế quan trong ngày 16/10 theo giờ địa phương. Thông báo được Tổng thống Brazil Luiz Inacio Lula da Silva đưa ra ngày 15/10 tại một sự kiện ở thành phố Rio de Janeiro.;
16-10-2025, 11:13
Ngày 15/10, tại Điện Kremlin, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã tiếp Tổng thống lâm thời của Syria, ông Ahmed al-Sharaa, người đang có chuyến thăm Nga đầu tiên kể từ khi chính quyền Tổng thống Bashar al-Assad bị lật đổ hồi tháng 12 năm ngoái. ;
16-10-2025, 11:12
Tại một thị trấn nhỏ của Italy, có một quán cà phê không bảng hiệu hào nhoáng, không chiêu trò quảng cáo, nhưng vẫn thu hút khách hàng nhờ tài pha chế của chủ cửa hàng - một cụ bà đã 100 tuổi nhưng đôi tay vẫn vững vàng sau quầy pha chế.;
16-10-2025, 11:11
- Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Hà Nội lần thứ XVIII - Hà Tĩnh nâng cao khả năng phục vụ của chính quyền - Cụ bà 100 tuổi vẫn “say” nghề pha chế - Fed đối mặt với bài toán cân bằng đầy rủi ro - Brazil và Mỹ thúc đẩy giải quyết vấn đề thuế quan ;
16-10-2025, 11:08